Cành Bông Giấy - Phần IV

Name:
Location: Vietnam

Friday, July 08, 2005

Chương 10









Xóm chài

Từ hôm đó thầy trò chúng tôi có nhiều dịp để tiếp xúc với nhau, những thằng học trò đa số là con em dân đánh cá, thâu phục tụi này không khó. Con gái nghe nói có đứa nhà nghèo thường phải theo mẹ bán hàng trong khi thuyền đánh cá về. Tôi từ một người dân thành phố nhưng tôi cố gắng học cách sống hòa đồng với mọi người. Căn bản là mình đừng bao giờ tỏ ra xa cách họ. Dần dà qua tiếp xúc với học sinh và gia đình chúng, tôi cảm thấy bắt đầu yêu mến cái làng chài lưới miền duyên hải này. Những buổi chiều không có giờ dạy tôi thường theo bọn học sinh lấy ghe nhỏ đi dọc theo bờ biển lưới cá. Có lẽ vì sinh ra và lớn lên ở miền quê, nên tôi thích hợp với đồng quê hơn là cuộc sống xô bồ ồn ào nơi thành thị. Sinh hoạt nhộn nhịp nhưng hiền hòa của làng Phước Tỉnh này còn nhiều điều khiến tôi thú vị. Tôi hiếu kỳ muốn xuống bến cá để lân la và hỏi thăm họ về công việc buôn bán nhưng chưa có cơ hội.

Thời tiết giao mùa, tôi bị cảm nặng, nên không đi dạy, ra biển đi dạo một vòng hít thở không khí trong lành tôi thấy người dễ chịu hẳn đi. Trên đường về sẵn ghé ngang nhà bác Năm, bà lao công của trường nhờ bà nấu cho ít cháo. Nhân tiện thấy bà Năm cắp rổ nói xuống bến cá mua cho trường một ít để sắp làm tiệc liên hoan gì đó. Tôi lợi dụng cơ hội này đi theo bà Năm xuống bến cá. Buổi chiều, những chiếc thuyền từ cửa biển mới đổ về tấp nập. Vừa xuống bến cá tôi bị cuốn hút vui với cảnh sinh hoạt buôn bán cả nơi bến thuyền. Chợt một giọng con gái từ sau lưng tôi:

- Chào thầy ạ!

Tôi giật mình quay lại, thì ra là Sen, cô bé Bắc kỳ nho nhỏ trong lớp Chín của tôi. Trong sơ yếu lý lịch ông bố Sen là ngư phủ đánh cá ở Hải Phòng, được ông anh làm cán bộ bảo lãnh vào miền Nam, sau cũng chọn Phước Tỉnh làng chài lưới lập nghiệp sinh sống. Gia đình nhà nghèo và thật thà chất phác. Sen là một trong những đứa lém lỉnh hay phá tôi khi trước. Tôi gật đầu mỉm cười, Sen liến thoắng nói:

- Thầy đi xuống bến cá làm gì? Ở đây lấm lem, nhơ nhớp.

Đưa tay chỉ bà Năm đang cặp rổ phía sau, tôi nói:

- Bà Năm đi mua cá, tôi đi theo chơi thôi.

Sen đứng bên hai giỏ đồ hải sản mới mua được từ dưới thuyền, trên có phủ lá chuối nên tôi không trông thấy cá ở trong. Cô bé dáng mảnh khảnh, con gái nghèo nhà quê, ở miền duyên hải mà, thường khỏe mạnh hơn những cô gái ở thành phố. Trông Sen khác hẳn với ngày thường, dưới khuôn mặt hơi hồng lên vì nắng và gió biển là đôi mắt sáng thông minh và nụ cười tươi vồn vã. Sen ở ngoài trưởng thành và già dặn hơn với Sen trong lớp học nhiều. Thật ra Sen chỉ thua tôi có vài tuổi. Năm ấy tôi vừa tròn hai mươi. Trông Sen thật dễ thương. Sen hơi bẽn lẽn mắc cỡ vì hôm nay nó trốn học, cô bé đâu biết hôm nay tôi cũng "trốn dạy". Sen lém lỉnh mỉm cười như phân trần với tôi:

- Bữa nay mẹ em ốm, nên em nghỉ học ở nhà giúp mẹ bán cá.
- Vậy sao, em giỏi dữ ha! Lại trốn học nữa!

Sen là một trong những cô học trò chăm chỉ của lớp tôi. Viết chữ đẹp bài vở lúc nào cũng sạch sẽ, có điều vì nhà nghèo nên hay nghỉ học luôn. Mỗi lần nghỉ học, buổi tối Sen thường ghé qua nhà tôi để lấy bài về học. Sen ngập ngừng:

- Để tối nay em ghé sang nhà thầy lấy bài như mọi khi.
- Không cần đâu, vì hôm nay tôi cũng nghỉ dạy.

Sen lém lỉnh buột miệng:

- A, em thì trốn học nhưng thầy cũng... thôi em không dám nói đâu.
- Tôi sao?
- …

Sen cúi đầu tủm tỉm cười im lặng không trả lời tôi.

- Em muốn nói tôi cũng trốn dạy phải không?

Sen che miệng cười, ánh mắt tinh nghịch hóm hỉnh nhìn tôi đầu khẽ gật nhẹ.

- Mấy em lúc nào cũng muốn phá tôi thôi.

Nhìn hai cái giỏ bên cạnh Sen, tôi hỏi:

- Em bán cá gì vậy?

Sen đáp một hơi:

- Không phải cá thầy ạ. Đây toàn là mực em mới mua dưới thuyền đem về bỏ mối có người lấy. Cá ngon thì để ở nhà em cơ. À! Hay là thầy mua giúp em đi! Cá tươi đáo để.
- Được rồi, nhà em ở đâu?
- Gần đây mà thầy.
- Gần là đâu? Xóm trên hay xóm dưới?

Sen chỉ tay về phía hai cồn cát trắng xóa ẩn khuất sau rặng dương.

- Nhà em ở sát hàng dương kia kìa, đi bộ chỉ một tẹo.

Vừa nói xong không đợi tôi trả lời, Sen nhanh nhẹn hai tay xách hai giỏ mực bước đi thoăn thoắt. Được vài bước Sen ngoái cổ lại thấy tôi còn đứng tần ngần, Sen dục:

- Đi chưa, thầy…

Tôi đành dợm bước theo cô bé học trò như cái máy. Tôi bèn rủ bà Năm đi theo Sen về nhà. Bà Năm người Nam nên không ưa giọng nói mấy con nhỏ Bắc Kỳ, hơn nữa chắc ngại xa nên bà ghé tai tôi làu bàu cằn nhằn vừa đủ nghe:

- Thiệt tình thầy! Mua cá dưới bến hổng được sao thầy?
- Bà Năm không nghe nó nói hả, cá tươi mà.
- Thầy tin chi mấy con nhỏ này, nó xạo thấy bà!

Tôi phì cười vuốt ve bà Năm:

- Hổng dám xạo đâu, nó là học trò tôi, tôi là thầy nó mà!
- Ui cha! Ông địa ơi! Thầy tin nó đi có ngày thầy bán lúa giống!
- Vậy sao?

Dù nói thế nhưng bà Năm vẫn lạch bạch theo tôi lội bộ đến nhà Sen. Tôi phải dùng chữ "lạch bạch" để diễn tả dáng đi của bà Năm, vì bước chân trên cát thật là khó đi, bà Năm thân hình chúi về phía trước và cứ phải dạng hai chân ra bàn chân bấu vào cát như con vịt vậy. Sen vẫn nhanh chân bước, qua một khoảng đường khá dài ngược mãi trên trên bến thuyền. Vượt qua hai cái cồn cát, rồi leo thêm một con dốc nữa. Cái một "tẹo" của Sen thiệt là không "tẹo" tí nào với tôi! Tôi vẫn ráng lê lết bước theo. Cơn sốt chưa hết hẳn nên tôi hơi choáng váng mệt muốn đứt hơi. Rồi thì cũng đến nơi. Vào đến nhà Sen đặt hai giỏ mực xuống xong đứng bên cạnh ghé tai nói nhỏ với mẹ:

- Mẹ ơi! Thầy con nè. Thầy đi với bà Năm, công nhân viên của trường.

Chỉ sang mẹ Sen bảo tôi:

- Còn đây là mẹ em!

Bà mẹ của Sen hơi ngạc nhiên một chút trong ánh mắt bà, tôi biết bà đang thắc mắc sao lại có cái anh thầy nào mặt mũi trẻ măng búng ra sữa như thế này, mà lại làm thầy con gái bà sao? Bà đưa mắt nhìn tôi từ đầu đến chân thật nhanh. Sen như hiểu ý mẹ, cô bé nhanh nhẩu giới thiệu tôi tiếp:

- Thầy Kiểm đi rồi, thầy Hùng mới về dạy toán.
- Vậy à! Dạ, chào bà Năm. Chào Thầy! Thầy giáo trông trẻ mấy? (trông trẻ đến thế sao)
- Dạ chào bác!

Bà có vẻ hơi lúng túng ngượng nghịu:

- Mời thầy mời bà Năm vào chơi, gớm nhà cửa bừa bãi luộm thuộm quá! Thầy thông cảm. Chúng mày đâu, cái Sen đâu, mau rót nước mời thầy với bà Năm.
- Dạ không cần đâu bác, chúng tôi đi mua cá rồi về ngay thôi!

Bà Năm thấy thế cũng chen vào:

- Ông thầy ổng đòi đi theo tui xuống bến cá chơi. Rồi gặp nhỏ này, nó rủ thầy về nhà mua cá.

Sen vừa rót nước chè tươi từ bình tích cũ vào hai cái ca bằng nhôm, cô bé vừa đưa mắt sang nhắc mẹ:

- Bán rẻ cho thầy đi mẹ!
- Cái con lanh chanh này! Xuống nhà lấy giỏ cá tươi lên đây cho tao xem nào.

Nới lỏng chiếc khăn quàng ngang cổ, quay sang phía tôi bà nói:

- Mời thầy và bà Năm xơi tạm chén nước. Dạo này giở giời, hay đổi gió, ốm quá thầy ơi.
- Dạ, cám ơn bác.

Tôi cầm cái ca bằng nhôm, nước bên trong vàng đục lờ lờ, sẵn đang khát nước không khách sáo tôi chiêu một ngụm cạn queo. Trong khi bà Năm và Sen đang lựa cá, bà mẹ Sen liếc mắt nhìn cô con gái và đưa đẩy câu chuyện để tiếp tôi:

- Gớm, thầy biết không cái Sen nhà tôi, con gái lớn như vậy mà chả giúp được việc gì. Thật là vô tích sự. Học thì dốt. Làm thì lười!

Ngưng một chút bà lấy hơi hỏi tiếp:

- A! mà cái Sen nhà tôi nó học có được không thầy?
- Sen nó học khá lắm chứ, chỉ phải hay nghỉ nhiều.
- Nó mà lười học thì thầy cứ việc...

Dường như bà chợt thắng lại kịp câu nói của mấy bà nhà quê là, "cứ việc phết vào đít nó cho tôi", nên bà sửa lại:

- A thầy cứ việc… a, muôn sự nhờ thầy răn dạy cho.
- Thưa bác nói quá lời, không sao đâu đó là bổn phận trách nhiệm của chúng tôi.

Chuyện vãn một hồi, những câu chuyện trời mưa, trời nắng. Bà nhìn tôi với đôi mắt có vẻ thiện cảm hơn trước. Tôi không lạ gì cả, tánh của những người dân quê ít học, họ thật thà chất phác nhưng họ cũng rất tự ái nếu mình tỏ ra kênh kiệu, kém thân thiện để lộ ra cái khoảng cách vô hình. Dù sao họ rất trọng những người có học.

Bà mẹ Sen tay cầm giỏ cá tiến lại gần bà Năm, nói kèm theo một nụ cười đầy chân tình:

- Thầy ạ! Cái này tôi nói không phải.. Thôi, xin để biếu các thầy các cô ăn lấy thơm lấy thảo, của ít lòng nhiều!

Tôi cười nói:

- Dạ cảm ơn bác nhiều! Không được đâu! Bác cũng phải buôn bán mà, tôi chẳng dám nhận.

Bà mẹ Sen cứ đẩy cá vào trong giỏ bà Năm. Bà Năm nhìn tôi đưa mắt như thăm hỏi. Tôi giải thích với mẹ Sen:

- Bà Năm mua cá cho tập thể trường có ghi sổ hẳn hoi Bác không lấy tiền chúng tôi không dám nhận đâu.

Tần ngần mãi một hồi lâu sau, biết rằng tôi nhất định không nhận cá nếu ba không nhận tiền, ba mẹ Sen đành nói:

- Thôi được nếu thầy bảo thế, vậy cái này thì cân ký bán, nhưng để tôi bảo cháu nó lấy con cá mú biếu thầỵ Ấy! Ngày nào bố nó cũng đánh về tươi lắm, dạo này trúng mùa đấy thầy.

Quay sang Sen bà nói tiếp:

- Con Sen, mày lấy con cá mú mới trong đêm qua ở trong khoang thuyền lên đây. Cái con chết tiệt này làm cái gì cũng chậm chạp. Thầy xem đấy, tính nết nó cứ lù đà lù đù.
- Dạ mẹ!

Thoắt một cái Sen đã xách lên một con cá mú còn tươi và nhét vào trong giỏ của bà Năm. Tôi có muốn ngăn cản cũng không kịp nữa. Cá mú là loài cá sống ở giữa hai thứ nước mặn, ngọt nên sống dai. Bỏ vào giỏ mà nó còn nhảy đành đạch. Tôi cười thầm, nhanh nhẹn như Sen mà bà nói "lù đà lù đù". Có thật không? Bà xem, lù đù có ngày nó xách cái lu chạy! Bà mẹ Sen luôn miệng mắng con gái, nhưng tôi hiểu đối với những bà bắc kỳ nhà quê như bà, đây là những lời mắng "yêu". Tôi đành nhận lấy con cá mú cho bà vui. Tự nhủ bữa nào sẽ mang một ít quà Sài Gòn lên tặng lại gia đình Sen. Không khí có vẻ thân thiện hơn, bà mẹ Sen nói luôn:

- Thầy xem, con gái thì học nhiều cũng chả cần thiết gì. Sang năm cháu nó có người đến chạm ngõ rồi, chừng ấy mời thầy nhớ đến uống chén rượu cho vui với gia đình chúng tôi.
- Dạ, nếu không về Sài Gòn tôi sẽ nhất định đến uống rượu mừng với gia đình bác.
- Thầy nhớ nha, có Thầy thật là nổi đình đám. Thật là quý hóa quá!

Trời đã xế chiều, tôi ngỏ ý muốn về:

- Thôi xin chào bác và cảm ơn bác nhiều nhé.
- Dạ, không dám chào thầy, chào bà Năm.

Quay sang con gái bà thúc dục:

- Sen, con giúp bà Năm xách giỏ cá về luôn thể ghé chợ lấy tiền hàng cho mẹ.
- Dạ mẹ.

Sen phụ với bà Năm xách hai giỏ cá. Chúng tôi bước ra đến ngõ rồi, bà mẹ Sen còn dặn với theo:

- Hôm nào rỗi, mời thầy ghé lại uống rượu với bố cái Sen.
- Dạ được, thôi chào bác nha.

Trên đường về Sen ít nói hẳn lại, dường như nhớ lại chuyện hồi nảy, cô bé có vẻ hơi mắc cỡ nói ấp úng:

- Thầy ạ,
- Cái gì đó Sen?
- A.. ưm… Hồi nảy, mẹ em hay nói lung tung thầy đừng có tin nha.
- Mẹ em nói nhiều quá tôi quên hết rồi.
- À! Mà thầy lên trường đừng nói với ai nghe, tụi nó trêu ghẹo em, xấu hổ chết được!
- Được, yên tâm đi, tôi không nói.
- Thầy hứa chắc nhé
- Ừ, hứa.

Trên đường về nhà lòng tôi lâng lâng một niềm vui nho nhỏ. Tôi đang từ từ khám phá ra cái thế giới quanh đây, trong cái làng nhỏ mà tôi muốn tìm hiểu. Có cả ngàn chuyện vui buồn lẫn lộn hay haỵ Nghĩ lại chuyện bà mẹ Sen than phiền là cô bé chả giúp được gì. Tôi cười thầm nghĩ. Trời ơi! Sen nó giúp bà cả ngàn công chuyện mà bà bảo là "vô tích sự"! Tôi đây mới là thằng ăn hại vô tích sự. Rồi bà lại tiết lộ tin sắp lấy chồng trước mặt anh thầy giáo trẻ làm cô bé học sinh e thẹn đỏ cả mặt. Học trò tôi tháng trước đã có đứa lấy chồng, bây giờ lại sắp đến Sen. Lần trước tôi phải về nhà nên hụt cái đám cưới học trò. Lần này nhất định tôi sẽ ở lại để mừng cho đám cưới Sen. Cô bé học trò ngoan của tôi. Tôi thực sự cảm động tấm chân tình của người dân quê thật thà chất phác nơi làng chài Phước Tỉnh.

Lần đầu tiên trong đời tôi thấy nghề dạy học có gì đâu là bạc bẽo. Nhớ lại hồi bé, mỗi năm Tết đến, mẹ thường được học trò tết lễ bằng kẹo bánh mứt đầy nhà. Bây giờ thời buổi khó khăn kẹo bánh chẳng có, tôi lại được phụ huynh học trò tặng cho cá mú. Cái tấm chân tình thời nào dù trong hoàn cảnh khó khăn cũng vẫn tồn tại và được biểu lộ như nhau. Con cá mú thật ra nó chỉ đáng giá mấy đồng bạc lúc bấy giờ, nhưng tâm tình nồng hậu của người dân quê khiến tôi thực sự cảm động. Tôi tự nghĩ mình đã làm được gì để xứng đáng với tâm tình này. Thành thực mà nói từ đầu tôi chả thích cái nghề dạy học tí nào cả. Những về sau dần dần ra tôi mới thấy rằng dù sao nó cũng đánh dấu một khoảnh đời của tôi. Quãng đời ấy đã cho tôi có một cái nhìn sâu sắc hơn về con người, về cuộc sống. Nhất là cái nhân sinh quan của tôi đã được nhuộm thêm nhiều màu sắc trong giai đoạn trưởng thành. Nơi đây tôi vẫn thấy tình người lúc nào cũng có trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Tối hôm đó tôi thực sự muốn viết một lá thư để kể chuyện này cho mẹ nghe, tôi bắt đầu cảm thấy yêu mến cái nghề dạy học này quá đi!

Dạo này, trời thường đổ cơn mưa vào buổi chiều hay chập tối. Mưa, khiến tôi nhớ nhà quay quắt. Cả tháng nay cứ mãi bận với việc khai trường nên tôi chưa về Sài Gòn được. Nhất định ráng đến cuối tuần này tôi sẽ về nhà. Chắc mẹ mong lắm, mẹ ơi, mẹ có biết giờ con thèm cái gì không? Con thèm ăn cá bống kho tiêu mặn mặn cay cay của mẹ. Bỗng bà Năm hỏi:

- Thầy Hùng, thầy bớt sốt chưa?
- Cũng đỡ đỡ chút bác Năm à, nhưng hôm nay ra biển lộng gió quá, nên vẫn nhức đầu.
- Vậy chiều nay tôi nấu cháo cá mú với gừng, thầy ăn giải cảm nghe?
- Bác Năm à! Con cá lớn quá! Cháu ăn một mình sao hết. Bác nấu cháo cá cho cả nhà ăn đi!
- Tui nấu cháo chừa lại cho thầy một tô, tối thầy ghé sang ăn nghe.
- Thôi đừng, cháu không ăn đâu. Ăn cháo mãi nhạt miệng quá.
- Vậy thầy ăn gì?
- Cháu muốn ăn cá bống kho tiêu.
- Hả! Cá bống kho tiêu? Sao thầy hổng nói sớm! Giờ tui kiếm đâu ra…
- Không có thì thôi bác Năm à.

Bà Năm ngạc nhiên:

- Vậy thầy muốn ăn gì?
- Ăn cháo cá của bác thôi.
- Thiệt tình thầy, đổi ý như cái chong chóng!

Quàng tay qua vai, dìu bà Năm bước đi trong đụn cát, tôi cười:

- He, he, bác không biết đâu.

Thursday, July 07, 2005

Chương 11

Thăm mộ


Nhân một dịp về thăm nhà tôi ghé thăm mộ bố và ông nội. Vào những năm cuối cùng trước khi xa xứ. Có lần tình cờ đi ngang nhà ông bác bạn của bố. Con đường đất vẫn như cũ, chằng chịt hai bên lối đi đầy cỏ dại. Giàn bông giấy năm xưa vẫn còn đó nhưng với thời gian đã già đi cành lá cằn cỗi. Trước thềm nhà bây giờ là mấy luống khoai mì trơ vơ buồn ngơ ngác. Con chó sủa mấy tiếng gâu gâu. Chị Thanh chạy ra mở cổng tay dắt theo một thằng bé con.

- Tưởng ai thì ra cậu Hùng, em vào chơi.

Tôi chào chị và đưa mắt nhìn thằng bé.

- Chào cậu đi con.
- Chào chị! Chị vẫn khỏe chứ? Bác có nhà không?
- Bố chị đi Sài Gòn chơi rồi, chắc chiều tối mới về.

Bước vào nhà nhìn quanh một lượt, đã lâu tôi không ghé thăm nhà bác. Nhà nào giờ cũng vậy trở nên thanh bạch, đồ đạc mỗi ngày một ít. Nhìn thằng bé, tôi tưởng nó còn nhỏ thế mà đã sắp đến tuổi vào trường đi học. Thằng bé thiếu dinh dưỡng, chỉ thấy hai con mắt đen láy và hai tai vênh ra như tai thỏ. Chị Thanh hồi trước cũng là hoa khôi trong trường cũng như chị Khanh của tôi. Mới có mấy năm cuộc đời xoay vẫn trông chị như già đi trước tuổi, tháng năm nhọc nhằn đã khiến chị trở nên tiều tụy.

- Cháu mấy tuổi rồi?
- Gần sáu tuổi rồi đó cậu.
- Thế à!
- Cháu nó sắp đi học rồi đấy. Sang năm là cháu vào lớp Một.

Thấy nhà vắng lặng tôi định hỏi anh đâu, tôi chưa kịp hỏi chị Thanh đã nhanh miệng buông một câu chua chát:

- Bố cháu cũng đi học, đi học “mút mùa lệ thủy” cậu Hùng ạ!

Tôi gượng cười vì trong hoàn cảnh này mà chị Thanh vẫn còn diễu được. Cuộc sống giờ đã khác nhiều, thêm phần nghiệt ngã. Thương cho thân phận người dân tôị Thương cho những "nàng Kiều model" của đất nước tôi. Các chị với số phận lao đao, nỗi khổ tâm dằn vặt của mình nào có thấm thía gì. Ngồi chơi với chị một lát. Trước khi ra về tôi ngỏ ý xin chị một cành bông giấy, nhân tiện trên đường về tôi ghé nghĩa trang thăm mộ bố và ông nội

Trời chiều nhạt nắng, tôi thấy lòng mình chợt se lại như một sợi dây đàn chùng. Linh cảm cho tôi biết, tôi chẳng còn nhiều cơ hội để đi thăm bố như thế này nữạ. Người ta bỏ nước ra đi ngày càng nhiều. Đi đến đâu cũng nghe xầm xì bàn tán nhỏ to chuyện vượt biên. Tôi dạy học ở miền biển có nhiều cơ hội. Đi hay ở lạỉ? Tôi nghe lòng xao xuyến phân vân. Tôi không muốn đời mình sẽ chôn vùi ở cái làng quê, xóm chài như thế này để dạy học. Tôi còn tuổi trẻ mà, phải làm được cái gì hơn chứ? Nhưng ở đây tôi sẽ chẳng làm được gì cả. Tôi ở đây sẽ chỉ là một gánh nặng cho gia đình và một nỗi lo âu cho mẹ. Còn nếu tôi ra đi, tôi sẽ phải bỏ lại tất cả, bỏ lại mẹ, chị và các em tôi, bỏ lại bạn bè, bỏ lại người thương…

Hơn nữa, chuyện ra đi không phải dễ dàng, để lo cho tôi đi, cả nhà đều phải hy sinh. Tiền bạc mẹ dành dụm cả nhà phải tiết kiệm, các em tôi tôi mỗi lần Tết đến cũng chỉ được mẹ mua cho bộ quần áo sơ sài, các em còn nhỏ mà sao đã phải thiếu thốn nhiều thứ. Dạo này tóc mẹ đã loáng thoáng sợi ngắn sợi dài điểm bạc. Nghĩ thương mẹ quá, cả một đời vất vả vì các con. Tôi đang đứng ở biên giới giữa hai con đường, đi và ở, mất và còn. Phải chọn một. Hàng đêm về những suy tư dằn vặt cuốn tôi vào con lốc xoáy mịt mùng không lối thoát.

Đặt cành bông giấy trước mộ bố, tôi ngồi ở đây hồi tưởng lại. Mới đó, đã gần mười năm rồi. Ngày đưa bố lần cuối tôi là thằng bé con hôm nay tôi đã là chàng trai trưởng thành. Và lời bố còn vẳng bên tai: "học hành thì làm biếng làm việc thì vô tâm". Thật là đúng quá bố ơi, tôi giờ còn vẫn chưa làm cho bố được vui lòng. Mãi trôi theo những suy nghĩ vẩn vơ, trời đã chạng vạng về chiều, bầu trời chuyển sang màu xám nhạt. Cụm mây đen ở đâu bỗng ùn ùn kéo đến, cành lá xôn xao, có lẽ trời sắp chuyển mưa.

Thấp thoáng đằng xa một bóng người nhấp nhô trên những hàng mộ bia lố nhố. Thì ra là ông bác già trông coi nghĩa trang. Bác đang bước tới chuẩn bị đóng cửa. Nhìn dáng ông bước gập ghềnh qua những ngôi mộ. Gió thổi đè xụp cái nón bèo nhèo khiến tôi không thấy rõ mặt ông. Chiếc áo lính kaki cũ rộng thùng thình, màu xanh nguyên thủy giờ đã ngả màu vàng của bụi đất trộn lẫn mồ hôi. Túi áo rách tả tơi lất phất theo nhịp chân đi, như cánh bướm đang ve vẩy. Một cơn gió đưa ngang cho tôi trông thấy rõ cái bụng nhăn nheo của ông tóp lại một cách tội nghiệp. Cái thắt lưng hình như đã được đã được xiết đến nấc cuối cùng, phần cuối cong queo rủ xuống ngang hông. Cũng trên cái dây lưng đó là cái bidon nước và cây cuốc nhỏ. Cái quần ông mặc nó cũng rất ư là "môn đăng hộ đối" với chiếc áo. Nó lửng lơ chẳng dài, chẳng ngắn, được xén ngang đầu gối. Dưới hai ống quần trơ ra hai cẳng chân đen đủi khẳng khiu. Cả thân hình bé nhỏ gầy guộc của ông hình như đang "bơi" trong cái bộ "chiến bào" lôi thôi ấy. Biết có nên gọi cái vật ông mang dưới chân là đôi dép hay không nữa? Vì nó chẳng phải là một đôi. Một chiếc là miếng cao su vỏ xe màu đen dây quai chằng chịt, chiếc kia mỏng hơn được cắt từ vỏ xe máy. Không trách sao ông đi bước thấp bước cao. Ông bác lên tiếng:

- Chào cậu, sao đi thăm mộ muộn thế, xập tối đến nơi rồi?
- Dạ chào bác. Lâu không gặp, bán vẫn khỏe chứ?
- Lai rai thôi cậu ơi, cái thân già lão này, tựa như chiếc lá mùa Thu, kha kha, chả biết rơi rụng ngày nào.

Thấy tôi dừng lại ở đôi chân ông khá lâu, ông bác ngửa cổ hớp một ngụm rượu để trong cái bidon con con mà tôi tưởng ông đựng nước, ông cười khà khà giải thích:

- Ấy! Hôm bữa mới ngồi quán nước, mới co chân lên, xẩy một cái là mất toi đôi dép cao su. Kha, kha, con bà nó! Cái lũ mánh mung chôm chỉa!

Thấy tôi im lặng, ông tưởng tôi không hưởng ứng câu diễu, nhưng thật ra tôi không biết nói gì thì đúng hơn. Ông bác bỗng cụt hứng, ông đổi sang giọng buồn buồn như phân trần:

- Giờ vậy đó cậu ơi! Cái này người ta cho nhưng hãy còn tốt chán. Chậc! Thôi kệ, miễn sao đi được là tốt rồi!

Thiệt tình, đến như ông bác nghèo khó như vậy, lũ ăn cắp vặt vẫn không tha. Nhớ hồi nhỏ đi học thầy cô dạy "Lá lành đùm lá rách", bây giờ có lẽ đổi thành "Lá rách cào lá nát". Tôi đưa mắt nhìn ông một lần nữa từ đầu đến chân, vừa tức cười vừa thương xót. Trông ông như một "đại cái bang", chẳng khác gì ông lão ăn xin, tay lại cầm xị đế nữa. Đã lâu không gặp ông đã hom hem già đi nhiều. Gần mười năm rồi còn gì! Chợt tôi nhìn lại chính bản thân mình và không khỏi cười thầm, tôi cũng đâu hơn gì ông, cũng tả tơi, xơ xác! Chỉ mới có vài năm qua mà tôi chàng trai trẻ, trông đã chẳng còn là hình dáng con người!

Gặp lại ông tôi cũng mừng, chuyện trò với ông trao đổi vài câu chuyện trời nắng, trời mưa. Bao nhiêu năm qua ông vẫn ở đây trông coi nghĩa trang, săn sóc những ngôi mộ, làm cỏ, tưới bông, quét vôi, đắp đất… Ai thuê ông làm đưa bao nhiêu cũng được, ông luôn vui vẻ không hề thắc mắc. Ông chỉ trông chờ vào lòng hảo tâm của thân chủ. Ông bác nghèo, nhưng tấm lòng của ông không nghèo. Ngày ngày xách cái cuốc và thùng nước con con, ông đi làm đẹp "thành phố yên tĩnh" nhất trên cái thế gian điên đảo cuồng quay này. Đó là niềm vui duy nhất của ông. Tôi có cảm tưởng bạn bè của ông là những người nằm dưới những phần mộ quanh đây; những người thuộc về thế giới vĩnh hằng, trong đó có bố và ông nội của tôi.

Nghe nói ông di cư từ miền Bắc vào đây, có bà vợ nhưng đã bỏ vì ông nghèo quá. Giờ chẳng có ai là người thân thiết. Còn lại một mình ông sáng chiều đội mưa nắng trong nghĩa trang lầm lũi. Tôi biết ông già đã làm ở đây lâu lắm rồi nhưng vẫn hỏi, ông bác đăm chiêu lắc đầu: “Chẳng nhớ nữa, hình như cũng lâu lắm rồi cậu ạ”. Thế giới của ông tuy nhỏ hẹp loanh quanh chỉ mấy bước chân, nhưng tấm lòng ông rộng lớn mấy ai bằng. Cái thế giới mộng tưởng của tôi xem ra thật là vĩ đại, nhưng tấm lòng của tôi so với ông còn bé tẻo teo, còn đầy những ích kỷ, hẹp hòi… Tự nghĩ mà thấy lòng hổ thẹn. Tôi thật cảm kích và ngưỡng mộ ông. Cuộc đời ông đã trải qua quá nhiều đau khổ, nhưng ông vẫn nhẫn nhục sống và ông vẫn thiết tha yêu người, yêu đời. Chợt nghĩ, dường như bây giờ ông sống như một người thoát tục, mọi việc trên thế gian này đối với ông như có vẻ hờ hững, dửng dưng. Kể cả cái chết chắc nó đến với ông một cách nhẹ nhàng, thanh thản. Tôi nguyện cầu cho ông những chuỗi ngày cuối ngày an bình.

Ông già đi với tôi tới tận cổng trước khi tạm biệt, khoắng tay trong túi quần chỉ còn ít tiền lẻ nhàu nát, tôi đặt vào những ngón tay xương xẩu chai sần của ông. Coi như biếu ông già uống rượu. Ông già húng hắng ho đưa đôi mắt thầm như cảm ơn. Trong tia mắt mờ đục của ông tôi cảm nhận được trong đó là một sự nhẫn nhục chịu đựng và an phận. Ước gì tôi có được cái tâm an nhiên như ông già gỉ? Nghĩ vậy thôi nhưng tôi biết rằng trong những ngày sắp tới đây tôi chưa thể an nhiên được.

Tuổi xanh như lá thu rừng cuối mùa
Mộng về đêm đêm khắc vần trán ngây thơ
(Bên Cầu Biên Giới - Phạm Duy)


Thực vậy, lý tưởng và những ước vọng của tôi đang còn được xếp đầy năm ngăn mộng. Tôi còn trẻ, con đường tương lai trước mắt còn dài đăng đẵng, tôi nhất định phải đi tôi còn có nhiều bổn phận với mẹ với các chị em tôi. Ngày mai đoạn đường trước mắt, dẫu có thể nào tôi vẫn phải lao mình bước tới. Trước khi chia tay tôi nhìn ông già, định nói thêm vài lời chia xẻ nhưng thôi, nói gì nữa bây giờ. Một già một trẻ nhìn nhau là đủ hiểu, tâm sự không cần phải nói chi nhiều.

Chiều nghĩa trang vắng tanh, mặt trời vạch một màu thẳm đỏ rồi lắng dần. Không gian trở nên lạnh lẽo hơn chùng xuống, Ông già dục tôi mau về nhà kẻo trời sắp đổ mưa. Ông ân cần đưa tôi ra tới cận cổng nghĩa trang, tôi đặt chiếc xe đạp bước lên con đường đất đỏ. Hai cánh cổng sắt nghĩa trang từ từ khép kín, hình ảnh ông bác già mờ nhạt dần với những giọt mưa đang lất phất rơi, bốn bề lặng lẽ đìu hiu, vi vu lộng gió.

Tôi vội leo lên xe đạp nhanh, những hạt mưa quấn quít đan vào nhau tạt xuống rát cả mặt, thấm qua làn vải áo. Mưa càng lúc càng lúc càng đổ nặng hạt lớn hơn, gió thổi mạnh, hàng cây hai bên đường lao xao nghiêng ngả. Bây giờ đang vào cuối Thu, những cơn mưa cuối mùa thường kéo đến rất nhanh và cũng ra đi một cách vội vã,

Tôi ngừng xe, ghé vào một cái quán nhỏ bên đường tránh mưa. Định kêu một ly cà phê nóng nhưng mới chợt nhớ ra mình đã vét sạch tiền lẻ cho ông già hết mất rồi, tôi đành đứng tạm ở ngoài hàng hiên. Cái hàng hiên chật hẹp nhỏ xíu, thế mà đã có một cặp trai gái đang đứng trú mưa. Người con trai đứng ra ngoài nhường cho cô gái nép vào trong. Họ đứng sát vào nhau, để nhường chỗ cho tôi. Cô gái tóc ướt sũng nước đang run lập cập, người con trai rút trong túi một cái khăn tay đưa cho cô gái lau vội những giọt nước mưa trên mái tóc. Một lát xong cô định trả lại khăn tay, người con trai vẫn đưa mắt nhìn xa xăm, hình như anh cũng có niềm tâm sự, bỗng anh cầm tay cô gái:

- Mưa này còn lâu mới tạnh. Hay vào quán kêu nước uống đi em.
- Thôi anh ạ, mưa rào chút xíu hà.
- Coi em kìa đứng lạnh run.
- Em hổng sao, vô quán chỉ tốn tiền.

Người con trai có vẻ ái ngại đưa mắt nhìn những hạt mưa rơi trên máng xối, cô gái hiểu ý muốn khỏa lấp xoa dịu anh:

- Trời sắp tối rồi, em muốn về nhà sớm hông mẹ la.

Cô gái không muốn anh chàng tốn tiền. Họ thì muốn tiết kiệm, tôi thì hết tiền! Bây giờ lúc khó khăn nhịn chút nào hay chút nấy. Thời buổi này nhà nước khuyên nhủ thanh niên với lập trường ba khoan: khoan yêu, khoan cưới, và khoan… đẻ! Qua cử chỉ và lời nói của họ tôi đoán hình như là một đôi bạn trẻ đang cặp kè thì đúng hơn là một cặp vợ chồng. Cô gái có mái tóc dài đen bỗng khiến tôi chạnh nhớ đến Phi khôn xiết. Không biết giờ này em đang ở đâu, Phi đang làm gì nhỉ?

Tạnh mưa, trời đã nhá nhem những ánh điện câu vàng vọt giăng mắc hai bên đường dẫn vào xóm nhỏ. Trên đường về vô tình lại đi ngang qua con đường cùng đi chúc Tết với bố và trở về với cành bông giấy năm nào. Cảnh đồng cỏ mười năm trước giờ không còn nữa, nhà cửa nay đã được cất lên san sát hai bên lề. Sau cơn mưa bầu trời đêm lại trở nên một màu tím thẫm, tôi ngước mắt nhìn lên trời cao như muốn tìm lại những vì sao lấm tấm của năm xưa….

Chương 12

Phi

trên đời có những chuyện tưởng chừng như là một sự tình cờ ngẫu nhiên nhưng lại được xếp đặt sẵn như đã an bài, tôi quen Phi trong một dịp tình cờ, chúng tôi đã cho nhau những kỷ niệm đẹp và dường như thượng đế đã an bài sẵn khiến tôi đành đoạn phải xa em.

… Ngày ấy, vào một đêm sinh hoạt văn nghệ Phi có giọng cao vút, trong như giọt sương mai, giọng hát của người con gái ấy miên man, truyền cảm khiến tôi mang ấn tượng. Ngay từ đầu quen biết tôi đã thích được gần P, được nói chuyện nhiều với P, và thèm một nụ cười trên khuôn mặt thuần hậu của em. Những buổi họp mặt, những đêm sinh hoạt lửa trại bập bùng. Tay cầm cành cây khô vẽ những đường dài ngoằn ngoèo trên cát. Có lần tôi để ý thấy mắt Phi hoen ướt. Phi khóc. Nghe nói ba của Phi bị đi học cải tạo, tôi thấy thương và tội nghiệp nhưng ngại ngùng không dám hỏi.

Một đêm bên ánh lửa hồng, người tình si hát một bản nhạc mình viết, thầm ý muốn tặng cho Phi. Hình như Phi hiểu, có vẻ đăm chiêu và suy tư hơn, lắng nghe tôi hát. Xong bài hát Phi mỉm cười, nhưng vẫn giả vờ cố tránh nhìn thẳng vào tia mắt tôi,. Tôi bối rối tự trách mình, sao ngu thế hát làm gì, phải chi cứ giữ bí mật bài hát ấy thì có hay hơn hông… Tại mình hát ra nên mọi người biết hết cả rồi. Còn đâu là bí mật nữa. Hạnh ngồi bên cạnh Phi như hiểu ý lay bạn nói đùa:

- Mây sầu giăng mắt Phi rồi Phi ơi!
- Nhỏ này, nhiều chuyện quá ha!
- Y da ! Hỏng phải sao.

Phi cố bào chữa nhưng vẫn không dấu được nụ cười bẽn lẽn nở trên môi. Bên ánh lửa chập chờn, đôi má Phi đỏ hồng lên, tôi cũng nghe mặt mình nóng bừng lên từ lúc nào, tôi lắp bắp cảm ơn sự tán thưởng của bạn bè, rồi vội vã ôm đàn bước đi về phía lều trại. Tôi thấy mất tự nhiên nên phải ở lại lâu hơn nữa, dù chỉ một vài phút nữa thôi không biết Phi có biết mình viết bài đó cho Phi không? Thấy còn sớm, quyết định chưa về lều vội, tôi quay ngược đi về phía bờ sông. Xa xa kia là các lều của đám con gái. Gió từ ngoài sông thổi vào lành lạnh. Thoải mái hơn, tìm một tảng đá lớn, gã si tình gác đàn lên đùi chống cằm lên thùng đàn nhìn ra suy nghĩ mông lung… Trời đêm ấy trong và cao vời vợi, vài đám mây nhỏ lững lờ trôi, ánh trăng phản chiếu xuống nước chập chờn. Tôi dạo đàn và hát nho nhỏ, để hồn hòa vào tiếng sóng vỗ nhẹ trên ghềnh đá:

Ngày tháng nào đã ra đi khi ta còn ngồi lại
Cuộc tình nào đã ra khơi ta còn mãi nơi đây…
(Tình xa - Trịnh Công Sơn)


Chợt nghe có tiếng chân lao xao đang tiến lại gần. Tôi ngừng đàn quay lại, trăng mười bốn tuy chưa sáng tỏ, nhưng đủ để tôi nhận ra Phi và Hạnh đang trên đường trở về lều. Tôi hơi bối rối khi thấy Phi đã tiến sát bên, Hạnh cất tiếng chọc tôi:

- Sao anh… còn mãi nơi đây? Tưởng anh về ngủ rồi chứ.
- À không, vẫn còn sớm mà, ngồi đây hóng mát.

Phi cất tiếng bỏ trống danh xưng:

- Cứ hát tiếp di cho tụi Phi thưởng thức với.
- Cảm ơn Phi. Buổi văn nghệ chấm dứt rồi hả?
- Rồi, anh ạ. Tụi Phi ngồi xuống đây một lát có được không?
- Không sao, cứ tự nhiên.

Ngượng ngùng, lúng túng tôi như thằng ngố. Khi Hạnh và Phi ngồi xuống, tôi tiếp tục dạo đàn nho nhỏ không theo một âm điệu rõ rệt nào cả. Bàn tay tôi ngượng ngịu, bứt rứt, tê dại trên khuôn phím. Những sợi dây đàn bỗng dưng xa lạ, buông cung đàn rời rạc, lạc lõng trong tiếng gió lồng lộng thổi từ ngoài bờ sông. Phi im lặng ngồi, bó gối nhìn ra ngoài. Ánh điện câu vàng vọt của xe nước mía hắt lên khuôn mặt Phi, tạo thành những đường nét tương phản. Tóc em buông xõa trên bờ vai chảy dài chạm trên bãi cỏ, cằm tựa lên gối, vành môi hơi cong ra ương ngạnh. Trông Phi đẹp như một pho tượng của phái Impression. Cái im lặng làm cho tôi càng thêm bối rối. Muốn nói vài câu nhưng ngại, sợ điều mình nói ra trở thành vô duyên. Cũng may, Hạnh mở lời nhắc:

- Đi về ngủ thôi Phi, khuya rồi!

Tôi vác đàn lên vai đứng dậy. Tôi đưa hai cô gái đến tận cửa lều. Hạnh có ý bỏ đi vào trước, tôi nói như nhắc nhở:

- Phi ngủ ngon, nhớ mặc áo ấm.

Phi chợt hỏi nhỏ:

- Có rảnh dạy cho Phi học đàn với. Phi thích lắm.

Tôi ngạc nhiên thấy vui vui, phải nói là mừng run lên được.

- Được... mà... Phi học đàn để hát cho ai nghe?
- Khi nào buồn Phi hát một mình,
- Vậy sao?
- Dạ, một mình thôi cũng được. Mà anh cho Phi xin cái bài nhạc mà hồi nãy anh hát có được không? Em thích bài đó lắm.

Tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Nghe thân thể mình chợt nóng chợt lạnh khó tả. Phi xin bài hát ấy? Nó đương nhiên là của em rồi mà! Hơn nữa, đây là lần đầu tiên Phi gọi tôi bằng "anh" và xưng "em" với tôi. Đang mông lung suy nghĩ câu trả lời thì Phi đã nắm lấy tay áo của tôi lay lay nhè nhẹ.

- Được không?
- Được... bữa nào đưa cho... khuya lắm rồi, Phi vào ngủ đi!

Ngập ngừng, bỏ trống xưng danh, vì không biết phải làm sao. Tôi mường tượng ra một ngã rẽ mới trong quan hệ tình cảm, mà lối thoát may mắn nhất là cắt ngang cuộc đối thoại. Bảo Phi đi vào lều, Phi hơi ngỡ ngàng nhưng liền quay gót vào trong, có lẽ Phi không được vui vì cụt hứng. Tôi giận mình sao ngu quá, sao không nói chuyện với Phi thêm một lúc nữa. Nhưng đã quá trễ, Phi đã khuất bóng dưới mái lều vải. Tôi vò nát một bông hoa sứ trong tay thẫn thờ đi về phía mé sông, nghe lòng mình như một sợi dây đàn sai cung điệu. Chùng hẳn xuống. Đó là lần đầu tiên ngỡ ngàng lúng túng chưa dám gọi Phi bằng em. Một đêm khó ngủ, thao thức trằn trọc tư duy. Phố phường đã qua một ngày.

Đêm sau sinh hoạt xong, tôi tìm gặp Phi, dúi vào tay Phi bài nhạc:

- Bài nhạc đây Phi à.
- Anh tặng cho em hả?
- Ừ, anh tặng cho em!
- Cảm ơn anh nhé! À, mà phải có chữ ký của anh mới được nha.
- Có mà... anh viết ở trong góc đó.
- Để em xem coi anh viết gì. Hi hi! Ah! Thấy rồi, nhưng sao chữ anh viết nhỏ quá, chữ nhỏ như con kiến.

Tôi định trả lời: “Chữ anh nhỏ nhưng tình thì lớn”. Nhưng câu nói như bị chận lại ngay đầu môi
- …

Đêm cuối cùng trước khi rời trại, tôi cố ý tìm Phi.

- Phi à, xuống bến đò uống nước mía với anh không?

Phi khẽ gật đầu. Chúng tôi sánh đôi về phía bờ sông. Trăng đã lên cao, ánh trăng chiếu qua hàng cây phượng ven đường rọi xuống đất, tạo thành những hình thể kỳ lạ nhảy múa chập chờn theo cung nhạc râm ran của tiếng ve sầu. Nhớ lại thời học sinh, hè về phượng vĩ đỏ ối rụng đầy sân trường, những xôn xao rung động của thời mới lớn. Giờ tôi đã làm thầy người ta rồi. Tôi gọi hai ly nước mía, thật hết sức buồn cười, với nửa ký lô đường mỗi tháng cho mỗi hộ, chất ngọt trở nên một nhu cầu, nước mía trở nên tuyệt diệu không thể tả. Tôi xoay tròn ly nước, bâng khuâng rồi áp nó lên má, bàng hoàng với cái lạnh tỏa ra. Phi nheo mắt rụt cổ với cái lạnh truyền đi từ trong ống hút. Vân vê cái ống hút Phi nhìn tôi cười. Chao ôi! Nụ cười xinh thương thương quá đi thôi!

- Bây giờ mới biết tại sao hôm qua anh lại buồn như vậy.

Tôi đốt một điếu thuốc Lao Động. Hơi thuốc lá nội hóa làm tôi không quen, ho sặc sụa.

- Anh hư lắm. Bày đặt hút thuốc... không giống ai hết!
- ...
- Bữa nào anh đi?
- Thứ Bảy này.
- Ngày mai anh đi... vì nhớ em nên lại về...

Phi nhẩm hát có ý đùa cho tôi vui. Tôi vẫn ngồi lầm lì, lượm từng viên sỏi quẳng thật xa rồi lắng nghe tiếng sỏi rơi chạm nước. Từng tiếng từng tiếng vang lên trong cõi lòng. Như từng viên đá cuội lặng lẽ đắm chìm sâu vào tận đáy biển khơi…

Một hôm Phi rủ tôi ra ga Bình Triệu đưa mẹ em đáp tàu ra Bắc thăm nuôi ba của Phi. Phi là con gái lớn trong nhà, cô em gái và hai thằng em nhỏ có tuổi xấp xỉ như Đạt em tôi. Nhìn con tàu Thống Nhất nằm im lìm trên đường rầy, chạnh nhớ năm xưa ga Đà Nẵng, tôi thằng bé con loắt choắt choáng ngợp với văn minh cơ giới, cảm giác ấy đêm nay không có được trong tôi. Thay vào là cảm xúc, tưởng tượng trưa mai con tàu này sẽ đi qua nơi tôi còn thơ ấu. Đà Nẵng với Ngũ Hành Sơn, bãi Mỹ Khê, con phố chợ nghèo nàn… Thoáng một cái đã gần hai mươi năm. Tiếng còi tàu hú lên đưa tôi về thực tại. Tàu sắp chạy, còn ít phút cuối mẹ Phi dặn dò mấy đứa con, và bà không quên nhắc tôi:

- Rảnh cháu ghé chơi với mấy đứa em dùm bác nghe!
- Dạ, thưa bác yên tâm.

Đường về, Phi chở một thằng em, tôi chở một thằng, Loan em gái của Phi đạp xe một mình. Tội nghiệp hai thằng em nhỏ, chúng buồn ngủ đờ cả người, con nít nhỏ mà. Đi được một hơi tôi đạp xe song song với Loan hỏi chuyện học hành của nhỏ, chợt quay lại thì Phi và thằng Hiệp đâu mất tiêu. Đèn đường chẳng có, chỉ thăm thẳm một màu tối đen kịt. Tôi bảo Loan vòng xe quay lại ngay. Hồi đó đêm khuya ít ai đi lại, đường xá vắng tanh chừng 10 giờ là người ta lên giường hết rồi, tôi rùng mình toát mồ hôi lo Phi bị thằng nào bắt đi thì chết. Bà mẹ Phi mới dặn trông chừng các em giúp bác thế mà mới xoay đi có một phút đã mất tiêu rồi. Mong là không có chuyện gì, chắc bị hư xe đó thôi. Tội nghiệp nhỏ Loan, nhỏ đạp chiếc xe mini đường xóc ổ gà bị tuột dây xích, tôi phải quay lại sửa, xong lại đi tìm Phi tiếp cho nên không đi nhanh được. Một mặt phải đạp xe chầm chậm chờ nhỏ Loan, một mặt tôi nóng ruột muốn đi nhanh hơn để tìm Phi, khiến nhỏ Loan lâu lâu lại thét lên "Anh Hùng ơi chờ em với!". Thật là lôi thôi quá!

Một lát sau cũng tìm thấy hai chị em Phi ở đằng xa nhờ cái áo trắng của Phi. Thì ra Phi để thằng Hiệp ngồi đằng sau, một tay ôm nó và một tay dắt xe. Phi nói thằng nhỏ buồn ngủ bị rớt xuống hố may mà không sao, trầy xát chút thôi. Hai chị em cùng sụt sịt khóc, thằng em như con mèo đói khóc tỉ tê vì đau, còn chị Phi khóc vì... sợ! Bây giờ tôi đâu có thì giờ để dỗ dành, phải lo giải quyết chuyện này cái đã. Không lẽ cùng dắt nhau đi bộ cả lũ thì đến sáng mới về được tới nhà. Tôi đang nghĩ cách, tôi muốn tìm một sợi dây, nhưng tìm ở đâu bây giờ? May quá, trong bóng tối nhá nhem, tia mắt tôi dừng lại ở cổ áo hai thằng nhóc. Phi ngạc nhiên hỏi:

- Anh làm gì vậy?

Tôi lột phăng hai cái khăn quàng đỏ từ cổ hai thằng nhóc. Rồi dùng một nút Hướng Đạo nối hai cái khăn lại với nhau, và bảo Phi:

- Ah! Có cách rồi, ha ha. Em ngồi lên xe đi, mau lên!

Loan dường như hiểu ý tôi, tủm tỉm cười đưa mắt nhìn Phi. Phi trợn tròn mắt:

- Thì ra anh... cột nó vào em à?

Tôi buột miệng nói đùa:

- Chứ sao! Không lẽ, hay là em muốn cột... anh vào với em?
- Anh này! Bậy bạ quá đi! Nói nhỏ tiếng một chút. Bé Loan nghe được nó cười cho kìa!

Thật ra trong đêm thanh vắng, Loan lại đứng sát bên, tôi có thì thầm đến mấy nó cũng nghe hết trơn. Bé Loan đã cười khúc khích từ lâu rồi. Xiết chặt cái nút Hướng Đạo cuối cùng, tôi yên tâm bảo:

- Xong rồi, em yên chí đạp xe đi.
- Có thể nào tuột không anh?
- Không sao đâu, hễ rớt thằng nào anh quay xe lại lượm thằng đó.
- Anh kìa, lúc nào cũng phá em được. Người ta đang rầu thí mồ!
- He he! Cười lên đi cho đời bớt khổ.
- Ah! Ui da! Chật quá, tức bụng em quá anh à!
- Chịu khó chút đi Phi, gần tới nhà rồi.
- Ui da, đau bụng quá!
- Thôi ráng đi em! Gần hết đêm rồi!

Tôi nhái theo lời nhạc bài Sang Ngang của Đỗ Lễ khiến Phi đang tức bụng cũng phải phì cười. Thằng Hiệp buồn ngủ rũ người ra. Dù sao nó cũng được đeo dính vào người chị. Còn thằng Hòa ngồi đằng sau ôm bụng tôi nhưng vòng tay cứ tuột dần, tuột dần. Thỉnh thoảng tôi phải đưa tay nắm lấy nó và bấu vào tay nó cho tỉnh ngủ. Tôi chỉ sợ thằng em buồn ngủ rồi lăn tòm xuống đường. Giờ đâu còn chiếc khăn nào nữa mà cột thằng nhóc này! Đường về khuya, sương đêm lành lạnh, ba chiếc xe đạp chạy sát vào nhau, vừa buồn vừa sợ khiến Phi ít nói hơn mọi ngày. Tôi đưa mấy chị em về đến nhà thì đã gần nửa đêm. Tôi dựa xe ngay trước cổng nhà. Phi tỏ vẻ thoáng chút âu lo vì đây là lần đầu tiên em phải thay mặt ba mẹ chăm sóc mấy đứa em, lúc ấy Phi đang học năm cuối của trung học. Phi nói:

- Anh biết không, ba em đi xa khi em mới lên lớp Bảy.
- Em còn đỡ, anh mất bố khi mới học lớp Tám! Ba em đi học tập thôi, thế nào cũng có ngày về mà.
- Không biết đến bao giờ ba em mới được về há?

Tôi nói như an ủi Phi:

- Chắc cũng mau thôi!
- Mau là bao nhiêu lâu anh?

Ngưng một lát Phi nói nhỏ theo tiếng thở dài:

- Năm năm rồi anh. Hàng đêm em thầm cầu nguyện cho ba, Chủ Nhật này là đầu tháng anh đi nhà nguyện Fatima với em không?
- Đi chứ, anh đến đón em nha, sáng hay chiều?
- Buổi sáng nghe anh, buổi chiều em trông nhà cho mấy đứa nhỏ đi lễ.
- Ừ, hôm nay thứ mấy rồi?
- Thứ Sáu anh ạ.
- Chóng thật, mới đó mà đã là cuối tuần, còn hai ngày nữa thôi.
- Thứ Hai này là mẹ em ra tới Hà Nội. Tàu chạy ba ngày hai đêm.
- Phi à! Mẹ em có bà con họ hàng gì ở miền Bắc không?
- Không anh! Mẹ em người miền Nam mà, hổng có bà con nội ngoại nào ở ngoài ấy hết.
- Thế có ai quen biết không?
- Cũng không anh!
- Vậy mình cầu nguyện cho mẹ em luôn.
- Dạ anh!
- Thôi khuya rồi, em vào đi ngủ đi.
- Dạ. Phi còn dặn với theo. Mai anh rảnh ghé chơi nghe.
- Ừ, mai! Thôi anh về.

Tôi đạp xe về nhà, vô tình cũng lại một đêm Xuân đi ngang con đường cùng với bố năm xưa, ngước mắt nhìn bầu trời đêm, những vì sao ngàn xa dường như đang ngậm ngùi lấp lánh.

Sáng hôm sau theo lời hẹn, tôi mang cây đàn guitar cho nó lên "tỵ nạn" ở nhà em trước. Tôi dạy cho Phi hát những bài nhạc em thích, tôi và em cùng thích nhiều bài giống nhau. Từ đó nhờ cây đàn mà chúng tôi tiến đến gần nhau hơn. Tôi nhờ em mà luyện ngón đàn, em nhờ tôi mà luyện giọng ca. Theo ngày tháng ngón đàn của tôi và giọng hát của em đã phát triển nhiều. Đến một ngày tôi chợt thấy, có một cái gì đó khác thường trong em và lẫn trong tôi. Thì ra giữa tôi và em, tình bạn đã vượt ra khỏi biên giới của nó, nhưng tình yêu thì mới vừa chớm nở, nó thật mong manh như làn sương khói ảo huyền. Cây đàn của tôi, hình như nó đã hoàn thành sứ mạng của nó. Còn riêng tôi, loay hoay mãi, tôi vẫn chưa nói được gì cả. Làm sao tôi có thể nói được! Trời ơi! Biết đến bao giờ tôi mới làm xong cái chuyện của tôi! Chuyện của tôi ư? Người ta nói: loay hoay như con gà mắc đẻ, con gà muốn đẻ ra quả trứng loay hoay cục tác! Cục tác! Đi tìm chỗ để đẻ. Tôi muốn tỏ lời với người thương mà cứ ậm ừ mãi không nói được thành lời, khốn khổ còn hơn con gà! Thôi thì đành câm nín vậy, chờ cơ hội thuận tiện. Tôi chỉ biết thường đến nhà nhìn thấy em, và đàn cho em hát đó là niềm hạnh phúc của tôi rồi.